Trâu cổ là loại dây leo, mọc bò với rễ phụ bám lên đá, bờ tường hay cây cổ thụ. Toàn thân có nhựa mủ trắng. Lá mọc so le; ở các cành có rễ bám thì lá nhỏ, không có cuống, gốc lá hình tim, nhỏ như vẩy ốc nên có tên là “cây vẩy ốc”.
Theo Đông y, quả có vị ngọt, tính mát, có tác dụng bổ thận tráng dương, cố tinh, hoạt huyết, lợi thấp, thông sữa. Dùng làm thuốc bổ, chữa di tinh, liệt dương, đau lưng, lỵ lâu ngày, kinh nguyệt không đều, viêm tinh hoàn, phong thấp, ung thũng, thoát giang (lòi dom), sa dạ con, tắc tia sữa và đái ra dưỡng chấp.
Thân và rễ: vị hơi đắng, tính bình, có tác dụng khu phong, hoạt huyết, tiêu thũng, tán kết và giải độc. Dùng chữa phong thấp tê mỏi, sang độc ung nhọt và kinh nguyệt không đều.
Lá có vị hơi chua chát, tính mát, có tác dụng tiêu thũng giải độc. Dùng chữa viêm khớp xương, nhức mỏi chân tay, đòn ngã tổn thương, mụn nhọt, đinh sang ngứa lở.
Trâu cổ được dùng làm thuốc trong các trường hợp:
Chữa tắc tia sữa, sưng vú, ít sữa: quả trâu cổ 40g, bồ công anh 15g, lá mua 15g. Sắc uống. Kết hợp dùng lá bồ công anh giã nhỏ, cho ít dấm, chưng nóng chườm hay đắp ngoài.
Cao quả trâu cổ: quả chín thái nhỏ, nấu với nước, lọc bỏ bã, cô thành cao. Ngày uống 5 – 10g. Dùng chữa đau xương, đau người ở người già, làm thuốc bổ, điều kinh, giúp tiêu hoá.
Rượu bổ chữa di tinh liệt dương: cành và lá, quả non phơi khô 100g, đậu đen 50g. Xay thô 2 thứ và ngâm trong 250ml rượu trắng, ngâm 10 ngày, ngày uống 10 – 30ml.
Chữa dương uỷ, di tinh: quả trâu cổ 12g, dây sàn sạt 12g. Sắc uống.
Chữa thấp khớp mạn tính: cành trâu cổ 20g, rễ cỏ xước 20g, thổ phục linh 20g, rễ tầm xuân 20g, dây rung rúc 12g, thiên niên kiện 10g, rễ gấc 10g, lá lốt 10g, dây đau xương 10g, tang chi 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô; sắc với 400ml nước, cô thật đặc, khi dùng hoà với rượu, chia làm 3 lần, uống trong ngày.
Nước thanh nhiệt giải khát: quả chín rửa sạch, xay nhuyễn, cho qua túi vải ép lấy nước cốt. Để yên một lúc nước này sẽ đông thành khối thạch trắng; thái thành sợi, thêm nước đường và hương liệu để uống.